Lịch sử Việt Nam thời tiền sử giới thiệu những dấu tích phản ánh sự xuất hiện sớm của con người trên đất nước Việt Nam và những di tích, di vật, văn hóa phản ánh hoạt động của con người từ Sơ kỳ thời đại đồ Đá cũ đến Hậu kỳ thời đại đồ Đá mới trên đất nước Việt Nam từ miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển, hải đảo; sự giao lưu với những văn hóa trong khu vực để phát triển, từng bước tạo tiền đề cơ sở vật chất quan trọng đưa Việt Nam bước sang thời đại mới - thời kỳ dựng nước đầu tiên với những bản sắc riêng. Mời các bạn cùng tìm hiểu Lịch sử Việt Nam thời tiền sử qua các thời đại để nhận thấy sự khác nhau cũng như tìm hiểu văn hóa của từng thời kì trong bài viết này.
A. Lịch sử Việt Nam thời tiền sử
1. Thời đồ đá cũ
Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn, Nghệ An, Yên Bái; các dấu tích của nền văn hóa Núi Đọ (Thanh Hoá), Thần Sa (Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ), cách ngày nay khoảng 10.000 - 30.000 năm trước. Khi đó con người đã biết sử dụng công cụ thô sơ bằng đá cuội, sống phân bố khá rộng, khá đông trên đất Việt Nam.
2. Thời đồ đá mới
Tiêu biểu với nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn (khoảng 6.000 - trên 10.000 năm trước). Con người đã sử dụng nhiều loại công cụ bằng đá có chức năng riêng; biết làm đồ gốm, trồng trọt sơ khai, từ giã hái lượm để sản xuất.
3. Thời đại kim khí
Cách đây khoảng 4.000 năm: từ thời đại đồ đồng tới sơ kỳ đồ sắt, trên đất nước Việt Nam đã hình thành ba trung tâm văn hóa lớn đồng đại: Phùng Nguyên - Đông Sơn (Bắc bộ), Long Thạnh - Sa Huỳnh (Trung bộ) và Cầu Sắt, Dốc Chùa - Đồng Nai (Nam bộ). Ba trung tâm văn hóa này có mối quan hệ qua lại mật thiết, lâu dài và góp phần tạo nên đặc trưng truyền thống văn hóa Việt Nam: thống nhất trong đa dạng.
B. Một số nét văn hóa của Việt Nam thời kỳ tiền sử
1. Văn hoá thời tiền sử
Giai đoạn bản địa của văn hoá Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN.
Đây là một giai đoạn dài và có tính chất quyết định; là giai đoạn hình thành; phát triển và định vị của văn hoá Việt Nam. Giai đoạn này có thể được chia làm hai thời kì. Thời tiền sử từ buổi đầu đầu đến cuối thời đại đá mới và thời sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm.
Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài người. Cách đây khoảng 40- 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết tích còn lại; chúng ta biết rằng người vượn (Homo – Erectus) đã có mặt ở nhiều vùng từ Bắc tới Nam. Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là Văn hoá núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kì thời đại đồ đá cũ phát hiện được ở núi Đọ; thuộc huyện Triệu Hoá; tỉnh Thanh Hoá).
Trên bề mặt Núi Đọ; các nhà khảo cổ học thu nhặt được hàng vạn mảnh ghè (hay mảnh tước như các nhà khảo cổ học thường gọi); có bàn tay gia công của người nguyên thuỷ. Những công cụ đá này rất thô sơ; chứng tỏ “tay nghề” ghè đẽo còn rất vụng về. Người ta tìm thấy ở đây 8 chiếc rìu tay; loại công cụ được chế tác cẩn thận nhất của người vượn. Sau văn hoá Núi Đọ; các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá cũ ở Việt Nam. Đó là văn hoá Sơn Vi (xã Sơn Vi; huyện Lâm Thao; tỉnh Phú Thọ).
Thời gian từ 20 đến 15 nghìn năm TCN; con người (người hiện đại- Homo sapiens) đã cư trú trên một địa bàn rất rộng; họ là chủ nhân của nền văn hoá Sơn Vi từ Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam; từ Sơn La ở phía Tây đến vùng sông Lục Nam ở Phía Đông. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các gò đồi của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra; người Sơn Vi còn sống cả trong các hang động núi đá vôi.
Đây là các bộ lạc săn bắt (bắn); hái lượm; dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế tác; đã có nhiều hình loại ổn định. Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân Sơn Vi là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh. Đa số là công cụ chặt; nạo hay cắt; có loại cắt ngang ở một đầu; có loại có lưỡi dọc ở rìa cạnh; có loại công cụ có lưỡi chạy xung quanh theo rìa tròn của viên cuội; hoặc có lưỡi ở hai đầu.
Dù điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa dạng; phong phú của các loài quần động thực vật phương Nam; song vết tích cư trú của loài người thời này chỉ hạn chế ở một số vùng; trên các gò đồi; trong một số hang động vì thời kì này những đồng bằng Bắc Bộ đều đang ở giai đoạn hình thành; chưa thích hợp cho đời sống định cư lâu dài của con người.
Dựa vào kĩ thuật chế tác công cụ của cư dân Sơn Vi; giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng họ đã có tư duy phân loại. Tư duy phân loại này thể hiện trong lựa chọn nguyên liệu đá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ. Người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa. Họ chôn người ngay trong nơi cư trú; thức ăn chủ yếu là nhuyễn thể; những cây; những quả; hạt và một số động vật vừa và nhỏ.
Việc chôn người chết trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên thuỷ về một thế giới khác; mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công cụ lao động được chôn bên cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy.
Trong giai đoạn tiền sử; cách đây khoảng một vạn năm đã có những thay đổi quan trọng; đánh dấu bước tiến mới trong lối sống của con người. Loài người bước vào thời đại đồ đá mới. Thời đại đá mới được đặc trưng bởi những tiến bộ về phương thức sản xuất cũng như kĩ thuật sản xuất. Toàn trái đất trở nên ấm; ẩm ướt; khí hậu môi trường có những biến đổi lớn; thuận tiện cho sự tồn tại; phát triển của con người; động và thực vật. Thời kì này con người nhận biết; tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá; đất sét; xương; sừng; tre; gỗ…
Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao; loại hình công cụ nhiều. Đặc biệt con người đã biết làm gốm; thuần dưỡng động vật và cây trồng; bắt đầu sống định cư; dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hoá Hoà Bình. Cư dân văn hoá Hoà Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi. Họ thích cư trú trong các khu vực gần cửa hang; thoáng đãng; có ánh sáng. Môi trường hoạt động của họ rất rộng bao gồm hang- thung- thềm sông; suối. Vì thế; văn hoá Hoà Bình còn được gọi là nền văn hoá thung lũng. Văn hoá Hoà Bình kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến 7000 năm cách ngày nay.
Người Hoà Bình sống chủ yếu bằng săn bắt (bắn) và hái lượm; song do đặc điểm của hệ sinh thái phồn tạp vùng rừng nhiệt đới; phương thức săn bắn (bắt) và hái lượm của người tiền sử là theo phổ rộng; lượm trong rừng đủ thứ có thể ăn và sử dụng được. Mặt khác; do môi trường không thuận lợi cho hoạt động săn bắn nên phương thức sống của cư dân Hoà Bình chủ yếu là hái lượm.
Gần đây; người ta đã tìm thấy hạt và quả của nhiều loài cây thuộc họ rau đậu và họ bầu bí; được coi là đã thuần dưỡng trong một số di chỉ văn hoá Hoà Bình. Vì vậy đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hoá Hoà Bình. Cuộc sống định cư tương đối là một nhân tố tạo cho sự nảy sinh nghề trồng trọt. Tất nhiên vai trò của nó còn rất nhỏ bé so với các hoạt động truyền thống hái lượm; và săn bắt (bắn). Có lẽ các hoạt động này vẫn là hoạt động kinh tế cơ bản của họ.
Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hoá thuộc trung kì và hậu kì đá mới; việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong đời sống con người; từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn.
Trong giai đoạn trung kì và hậu kì của thời đá mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn; con người đã chiếm lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi; trước núi và ven biển. Ở vùng sinh thái ven biển; nghề đánh cá phát triển mạnh. Thời kì này được đặc trưng bởi các nền văn hoá Đa Bút (Thanh Hoá); Quỳnh Văn (Nghệ An); Hạ Long…với những làng định cư lâu dài; ổn định; trong đó; bên cạnh quan hệ dòng máu đã xuất hiện và ngày càng nhiều những quan hệ láng giềng phức tạp.
Cư dân thời đại đá mới có một tri thức phong phú về tự nhiên; những hang động và những nơi cư trú khác của họ đều là những địa điểm thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất. Điều này cho thấy con người thời bấy giờ đã biết thích nghi một cách hài hoà với tự nhiên.
Thời kì này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá; hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội; những mảnh thổ hoàng… Người Hoà Bình; theo GS. Hà Văn Tấn có lẽ đã có những biểu hiện về nhịp điệu; thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch trên các hòn đá cuội được tìm thấy trong hang động.
Dù mới chỉ giả thiết về số đếm; cách tính ngày… những di vật được tìm thấy trong văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển tư duy của người nguyên thuỷ. Tư duy về thời gian vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn; kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn; hình chữ…vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành một loại nông lịch sơ khai.
Những điều kiện định cư lâu dài và sự phát triển của nông nghiệp đã làm hình thành rõ nét tính địa phương của văn hoá trong những khu vực hẹp vào cuối thời đại đá mới (cách đây khoảng 5000 năm). Thời kì này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ. Là cư dân nông nghiệp nên mưa; gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành một trong những thần linh quan trọng đối với con người.
2. Văn hoá thời sơ sử:
Cách đây khoảng 4000 năm; cư dân Việt Nam; từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai; đã bước vào thời đại kim khí.
Thời kì này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hoá lớn là Đông Sơn (miền Bắc); Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam).
Văn hoá Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
Văn hoá Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa.
Văn hoá Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn hình thành văn hoá Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai- Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay; văn hoá Óc Eo thường được gắn với vương quốc Phù Nam; một nhà nước tồn tại từ thế kỉ II đến hết thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long.
3. Từ văn hoá tiền Đông Sơn đến văn hoá Đông Sơn:
Nhiều học giả đã thừa nhận rằng chí ít văn hoá Đông Sơn hình thành trực tiếp từ ba nền văn hoá ở lưu vực sông Hồng; sông Mã; sông Cả. Các nền văn hoá Phùng Nguyên- Đồng Đậu- Gò Mun thuộc giai đoạn đồng thau (từ khoảng 2000 đến 700 năm TCN) phân bố ở lưu vực sông Hồng. Trong giai đoạn này con người vẫn sử dụng đá; gỗ; tre; nứa; xương; sừng… để chế tạo công cụ và vũ khí. Đồ gốm đạt độ nung cao hơn; dày và cứng hơn; đa số có màu xanh mốc. Bên cạnh đó; việc xuất hiện của vật liệu mới- đồng; đã gây ra những tác động to lớn đối với kinh tế; xã hội và văn hoá của các cộng đồng người.
Trong thời đại đồng thau ở miền Bắc Việt Nam; đặc điểm văn hoá địa phương còn khá rõ ràng. Dựa vào đặc điểm; tính chất của di vật; di tích ta thấy có sự phát triển riêng của từng khu vực ở lưu vực sông Hồng; sông Mã; sông Cả. Điều này phản ánh một thời kì tồn tại của các nhóm bộ lạc hay liên minh bộ lạc giữa các vùng. Ở các khu vực nói trên có sự giao lưu văn hoá mạnh mẽ thông qua việc tiếp xúc kinh tế – xã hội (hoạt động trao đổi kinh tế; trao đổi phi kinh tế như trao đổi tặng phẩm; vật phẩm tôn giáo); hoặc quan hệ hôn nhân; quan hệ ngoại giao; xung đột và hoà giải.
Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước; họ đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu; bò; lợn gà;…Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hoá dày. Bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú là các di chỉ mộ táng.
Cư dân văn hoá thời đại đồng thau miền Bắc Việt Nam có đời sống tinh thần phong phú. Điều đó thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật của họ. Đặc biệt; họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa; biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kĩ thuật chế tác đá; đúc đồng.
Vào khoảng thế kỉ VII TCN; các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hoà chung vào một nền văn hoá thống nhất- văn hoá Đông Sơn. Đó là lúc các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất văn hoá được hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt- Trung cho đến bờ sông Gianh Quảng Bình; mặc dù theo các nhà khảo cổ học nhà nước này vẫn có những dáng hình địa phương. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng chưa có một văn hoá tiền Đông Sơn nào trước đó lại có phạm vi phân bố rộng như vậy.
Một số sách cổ của Trung Quốc như Thuỷ kinh chú; Giao châu ngoại vực kí… đã ghi chép về nghề trồng lúa nước của người Việt cổ ở giai đoạn này. Vì thế; cư dân văn hoá Đông Sơn vẫn là cư dân nông nghiệp trồng lúa. Họ canh tác trên nhiều loại đất khác nhau. Hình thức canh tác phổ biến là loại ruộng chờ mưa. Thời kì này họ có thể đã có những kĩ thuật trị thuỷ như đắp đê chống lụt. Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn đã khá đa dạng với cuốc; xẻng; mai; thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước nhảy vọt trong kĩ thuật canh tác.
Nông nghiệp dùng cày phát triển (có nhiều lưỡi cày đồng; với các chủng loại phù hợp với từng loại đất). Cũng có thể ngay từ thời kì này người ta đã biết làm một năm hai vụ. Bên cạnh trồng trọt là chăn nuôi; việc chăn nuôi trâu bò đã phát triển; trước tiên là để đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp. Trên trống đồng người ta tìm thấy khắc hoa văn hình bò; trong một số di chỉ khảo cổ học còn tìm thấy tượng đầu gà.
Kĩ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kì này; với một trình độ điêu luyện đáng kinh ngạc. Số lượng và loại hình công cụ; vũ khí bằng đồng tăng vọt. Đặc biệt; người Đông Sơn đã đúc những hiện vật bằng đồng kích thước lớn; trang trí hoa văn phong phú; mà cho tới ngày nay nó vẫn là biểu tượng của văn hoá dân tộc. Đó là những trống đồng; thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng; chứng tỏ trình độ kĩ thuật và bàn tay tài hoa của người thợ Đông Sơn.
Kĩ thuật luyện và rèn sắt cũng khá phát triển; đặc biệt ở giai đoạn cuối của văn hoá Đông Sơn. Ngoài những ngành nghề kể trên; người Đông Sơn còn biết chế tạo thuỷ tinh; làm mộc; sơn; dệt vải; đan lát; làm gốm; chế tác đá.
Làng xóm thời kì này thường phân bố ở những nơi đất cao; thậm chí ở sườn núi hay trên những quả đồi đất.. nhưng bao giờ cũng nằm gần các sông lớn hay các chi lưu của chúng. Khoảng cách giữa làng và sông thường từ 1 đến 5 km… Việc chọn nơi cư trú như vậy cho thấy người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự nhiên.
Bởi lẽ đất cao sẽ khô ráo mà lại tránh được ngập lụt vào mùa mưa. Làng thời kì này có quy mô tương đương với xóm hay làng nhỏ ngày nay; có chừng vài trăm người. Ngoài ra; còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài khu vực cư trú đông đúc. Đó là hiện tượng thường gặp đối với cư dân nông nghiệp ở những vùng đồng bằng phì nhiêu.
Có lẽ do hiện tượng chiến tranh đã trở nên thường xuyên (thể hiện trong các truyền thuyết; và tỉ lệ cao của các loại vũ khí; đồ dùng cho binh lính) nên chung quanh làng; có những vành đai phòng thủ; mà khả năng lớn là các luỹ tre làng. Công trình phòng thủ thực sự với hệ thống thành luỹ quy mô thời Đông Sơn ngày nay người ta mới chỉ biết đến có một; đó là thành ốc Cổ Loa.
Người Đông Sơn đã có những phong tục; y phục khá phong phú; không phải chỉ biết có ở trần; đóng khổ; mặc vỏ sui như nhiều người thường nghĩ. Dựa trên trang trí trên cán dao găm hình người; hoa văn trên trống đồng và thư tịch cổ; ta biết được ít nhất có bốn kiêủ để tóc. Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc quần áo theo phương châm giản dị; gọn gàng tới mức tối đa: Ở trần; đóng khố; đi chân đất. Riêng với nữ phổ biến mặc váy thay khố. Tuy vậy cũng có một số áo cánh dài tay; áo xẻ ngực bên trong có yếm. Ngoài ra còn có một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết; khố dài thêu…
Người Đông Sơn ưu thích đồ trang sức; họ đeo đồ trang sức ở tay; cổ tay và cả ở chân. Đồ trang sức thường được làm bằng đồng; thuỷ tinh; song không thấy đồ vàng bạc hay đá quý. Khác với cư dân trước đó (ăn gạo nếp là chủ yếu) cư dân Đông Sơn bắt đầu ăn gạo tẻ. Điều này được các nhà nghiên cứu lí giải bằng sự bùng nổ dân số vào giai đoạn đầu của văn hoá Đông Sơn; khiến cho cư dân phải mở rộng diện cư trú đến những vùng đất mới.
Phương thức quảng canh; trồng cấy đại trà ở những vùng đất mới này không thích hợp với giống lúa nếp. Từ đó suy ra hệ quả là gạo tẻ trở thành thành phần chính trong cơ cấu lương thực; gạo nếp trở thành quý hiếm; được dùng chủ yếu trong lễ tết cầu cúng.
Ngoài gạo họ còn ăn các loại hoa màu; rau quả; thuỷ sản. Mô hình cơm- rau- cá trong cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn chứng tỏ sự hiểu biết thấu đáo và sự hoà hợp cao độ của người Đông Sơn với môi sinh. Nhà ở của cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng những vật liệu dễ bị phá huỷ theo thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái cong; mái tròn; và là nhà sàn.
Lựa chọn kiểu kiến trúc nhà sàn cũng là sự ứng xử thông minh trước môi trường của người Việt cổ. Về phương tiện đi lại; chủ yếu là thuyền bè; đường vận chuyển chủ yếu là đường sông và ven biển. Ngoài ra còn có đi bộ; gánh gồng mang vác trên vai; trên lưng. Và con người đã biết thuần dưỡng voi; dùng voi để chuyên chở.
Thời kì này là thời kì hình thành những huyền thoại; thần thoại. Hệ thống thần thoại này dù đã bị vỡ ra từng mảnh trong thời kì Bắc thuộc; trước sự tiếp biến với văn hoá Hán cũng như với các tôn giáo lớn từ bên ngoài; song vẫn còn lại ít nhiều qua các ghi chép về sau này của người Việt và dưới dạng sử thi- thần thoại ở các bài mo “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường.
Song nếu đã có một hệ thống thần thoại; thì tính đa thần giáo hẳn còn rõ nét. Những huyền thoại này đã phản ánh quá trình khai phá và chiếm lĩnh các đồng bằng của cư dân Việt cổ; quá trình hội nhập các bộ lạc hay nhóm bộ lạc. Qua đó; ta có thể thấy rõ những mối quan hệ của con người thời bấy giờ với tự nhiên và xã hội.
Những nghi lễ và tín ngưỡng giai đoạn này gắn chặt với nghề nông trồng lúa nước. Đó là tục thờ mặt trời; mưa dông; các nghi lễ phồn thực và những nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối đáp gái trai; tục đua thuyền; tục thả diều;…
Đặc điểm nổi bật của thời kì này theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước là tư duy lưỡng phân; lưỡng hợp. Đó là một loại tư duy phân loại chia đôi đã tồn tại khá lâu và có ở nhiều vùng trên thế giới. Ở Đông Nam Á và Việt Nam lối tư duy này tồn tại lâu dài tạo thành một đặc điểm khá nổi bật. Người xưa cho rằng thế giới được chia đôi: Có đàn ông ắt có đàn bà; có đực tất có cái; có âm ắt có dương.
Người Đông Sơn còn có tư duy khoa học; điều này thể hiện ở tri thức thiên văn học; khái niệm số đếm; khái niệm lịch pháp…Phong tục tập quán của người Đông Sơn cũng rất đa dạng ví như tục nhuộm răng ăn trầu; xăm mình; ăn đất nung non; uống nước bằng mũi; giã cối làm lệnh; tục ma chay; cưới xin… Các lễ hội: hội mùa với lễ hiến sinh trâu bò; hội cầu nước với lễ hiến tế; hội khánh thành trống đồng.
Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật quan trọng đã khá phát triển thể hiện đời sống tinh thần của cả cư dân Đông Sơn. Nhạc cụ đáng lưu ý là trống đồng; sau đó là sênh; phách; khèn. Giao lưu văn hoá thời kì này rất rộng rãi. Ngoài giao lưu với Sa Huỳnh và Đồng Nai; ở phía Bắc có mối quan hệ và tiếp xúc với các cư dân Nam Trung Hoa; phía Đông với các hải đảo; phía Tây với lục địa. Các nhà nghiên cứu Việt Nam phần đông đều nhất trí cho rằng đã hình thành một quốc gia Văn Lang và một nhà nước sơ khai trên cơ sở nền văn hoá Đông Sơn.
Dựa trên những chứng cứ về mật độ phân bố và quy mô của các di tích khảo cổ học (nơi cư trú; mộ táng; công xưởng…) trên các địa hình khác nhau từ miền núi; đồng bằng; duyên hải và đảo; của các hiện vật khảo cổ học; các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng có một sự mở rộng các quan hệ giao lưu giữa các công xã. Loại hình công xã thời hậu kì đá mới là loại hình công xã thị tộc phát triển. Xã hội của người Việt đến đây vẫn hoàn toàn là xã hội nguyên thuỷ.
4. Văn hoá Sa Huỳnh:
Trung tâm hay đỉnh cao của văn hoá thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi tên theo một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Đó là văn hoá Sa Huỳnh.
Nền văn hoá này có quan hệ gốc gác với các nền văn hoá hậu kì đá mới; sơ kì thời đại đồng thau ven biển như văn hoá Bàu Tró; Hoa Lộc; Hạ Long; nhất là văn hoá Bầu Tró; có không gian phân bố cận kề với văn hoá Sa Huỳnh.
Văn hoá Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kì thời đại đồng thau (hơn 4000 năm cách ngày nay) cho tới sơ kì thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7- 6 TCN tới thế kỉ 1- 2 trước và sau công nguyên). Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là giữa các nhóm di tích của cả ba giai đoạn sơ; trung kì (thời đại đồng thau) và hậu kì (sơ kì thời đại sắt) đều có những đặc trưng chung và văn hoá Sa Huỳnh thời đại sắt hay Sa Huỳnh cổ xưa là bắt nguồn từ những di tích của thời đại đồng thau và chắc chắn có sự tham gia ảnh hưởng của một số yếu tố văn hoá khác.
Về giới hạn dưới hay thời điểm kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh; dựa trên những niên đại C14 ở một số khu mộ Chum Hàng Gòn ( Phú Hoà- Đồng Nai); Quế Lộc (Quảng Nam) và những hiện vật văn hoá Hán như tiền Ngũ Thù; Vương Mãng ở di tích Hậu Xá (Hội An- Quảng Nam); có thể chấp nhận niên đại muộn nhất của các di tích là thế kỉ I; II SCN.
Chủ nhân Văn hoá Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hoá hậu kì đá mới; sơ kì đồng thau ven biển. Với cốt lõi là văn hoá Bàu Tró mà chủ nhân văn hoá trên được các nhà nghiên cứu coi là những người tiền Mã Lai- Pôlinêdi.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình; văn hoá Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hoá hậu kì đá mới- sơ kì đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn hoá trên được coi là tiền Môn- Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hoá này nói tiếng Nam Đảo hay Malai- Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á.
Đặc trưng văn hoá:
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình Châu- Quảng Ngãi). Tuy vậy; nguồn gốc của hình thức mai táng này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu tiếp. Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía Đông; đã phát hiện nhiều khu mộ- những bãi mộ chum rộng lớn; nhiều tầng lớp với những loại hình vò; chum mai táng hình cầu; hình trứng; hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn; phân bố thành cụm hay lẻ tẻ.
Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tuỳ táng với các chất liệu đá; đá quý; thuỷ tinh; đồng; sắt và gốm. Ngoại trừ một vài chum còn vết tích xương răng trẻ em (Hậu Xá- Hội An- Quảng Nam; Mỹ Tường- Thuận Hải); hầu như các chum chỉ còn đồ tuỳ táng; cát trắng và ít than tro. Theo các nhà nghiên cứu có thể do hoả táng; có thể do hình thức mộ tượng trưng.
Ở những giai đoạn sớm và giữa; đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác công cụ và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối; đồ sắt chiếm lĩnh cả về số lượng và chất lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kĩ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương pháp rèn). Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã được phát hiện đến nay thì số lượng lên đến hàng trăm chiếc; chủng loại đa dạng gồm rựa; dao quắm; giáo; mai; liềm; thuổng; kiếm ngắn;… Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hoá Đông Sơn ở phía Bắc; văn hoá Đồng Nai ở phía Nam; số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt của văn hoá Sa Huỳnh nhiều hơn hẳn.
Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang); cư dân văn hoá Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi; dệt vải; chế tạo gốm; làm đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều dọi xe chỉ các loại và những dấu vải còn in trên công cụ vũ khí bằng sắt trong các mộ chum. Nghề gốm rất phát triển với nhiều loại chum; vò; bát bồng; đèn; hình bình lãng hoa; bình con tiện; cốc cao chân… và vô số những đồ gia dụng.
Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tô màu; khắc vạch. Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao; lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành). Cư dân văn hoá Sa Huỳnh cũng là những người có năng khiếu thẩm mĩ; rất khéo tay và có một mĩ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức (vòng; nhẫn; khuyên tai…) bằng thuỷ tinh; mã não; đá; gốm; nephrit. Chất liệu được ưa thích nhất là mã não (mã não được nhập từ nơi khác đến vì vùng miền Trung không có nguyên liệu này). Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mẩu là một chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù.
Trong các di tích văn hoá Sa Huỳnh tìm thấy số lượng lớn những loại khuyên tai này. Ở di tích Đại Lộc- Quảng Nam còn tìm thấy một khuyên tai hai mấu còn ở tình trạng chế tác dở dang. Trong một số di tích đương đại của nền văn hoá Đông Sơn (Bắc Việt Nam); Philipin; Thái Lan… cũng tìm thấy những loại khuyên tai này. Đó là bằng chứng của sự lan toả ảnh hưởng của văn hoá Sa Huỳnh. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn biết nấu cát làm thuỷ tinh và dùng thuỷ tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm; hạt chuỗi; vòng tai; khuyên tai ba mấu; hai đầu thú…). Từ đây đồ trang sức thuỷ tinh lan ra cả phía Bắc và vào phương Nam.
Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân nong nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển cồn bàu. Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền kinh tế đa thành phần; họ sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển; của rừng; biết phát triển các nghề phổ thông; từng bước họ đã mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa; hải đảo và rộng hơn với Ấn Độ; với Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối; nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển. Ở ven biển miền Trung; vào những thế kỉ trước; sau công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai.
Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn của các di chỉ văn hoá Sa Huỳnh là chứng cớ của sự quần tụ đông đúc dân cư; sự phong phú về kiểu loại; số lượng của các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu là dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ của cư dân văn hoá này; đều chứng tỏ ở giai đoạn cuối đã hình thành một nhà nước sơ khai.
Sự trùng hợp về địa bàn phân bố; của niên đại kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh và niên đại mở đầu của văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật đặc biệt là đồ gốm và đồ trang sức; của táng thức; của các ngành nghề kinh tế cho thấy Nhà nước Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh. Nhà nước Chămpa được hình thành trên cốt lõi của văn hoá Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hoá ngoại sinh Trung Hoa; Ấn Độ. Và sự “Ấn Độ hoá” ban đầu chỉ xảy ra ở lớp mặt của văn hoá (tôn giáo) ở tầng lớp trên của xã hội.
5. Văn hoá Đồng Nai:
Sau thời đại đá cũ; bẵng đi một thời gian dài; đến khoảng hơn 4000 năm cách ngày nay; trên đất Đông Nam Bộ xuất hiện một lớp cư dân mới. Họ thuộc chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm); sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau. Đông Nam Bộ vào những thiên niên kỉ II- I TCN đã trở thành một trong ba trung tâm văn hoá lớn của thời đại kim khí. Văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc; Sa Huỳnh ở miền Trung và Đồng Nai ở miền Nam.
Văn hoá Đồng Nai được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hoá tại chỗ ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Hàng trăm di tích của các giai đoạn sớm; giữa; muộn đã được phát hiện và nghiên cứu. Những di tích này phân bố suốt từ vùng đồi gò cao cho tới trung; hạ lưu các con sông và ven biển. Mỗi một tiểu môi trường sinh thái ứng với một mô thức sản xuất- văn hoá thích hợp.
Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn với hai vòng thành và hào sâu ở Lộc Ninh- Bình Long.
Vùng liên kết đồi bazan- đá phiến- phù sa cổ dọc hệ thống Sông Bé- Đồng Nai; nơi tập trung dày đặc các di tích; di chỉ- mộ táng- xưởng thủ công đơn hay đa ngành; tiêu biểu nhất là Suối Linh; Bình Đa; Dốc Chùa.
Vùng phù sa đất xám thuộc hệ thống sông Vàm Cỏ với những di chỉ; di chỉ kèm mộ đất như An Sơn; Gò Rạch Rừng; Đinh Ông; Rạch Núi.
Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu Đồng Nai – Vàm Cỏ và những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu vùng kinh tế – văn hoá mới tạo thành từ đầu thiên niên kỉ I TCN như Cái Vạn; Bưng Bạc; Bưng Thơm; Giồng Phệt; Giồng Cá Vồ…
Ở cả năm tiểu vùng văn hoá tiền – sơ sử Đông Nam Bộ; di vật được đưa ra khỏi lòng đất từ nhiều dạng di di tích khảo cổ khác nhau với nhiều chất liệu gốm; đá; gỗ; đồng; sắt; xương…
Đó là loại di vật phổ biến và có số lượng lớn. Đây cũng là đặc điểm lớn nhất của văn hoá Đồng Nai- nơi mà công cụ; dụng cụ bằng đá lấn át mạnh mẽ và dài lâu- kim loại do thiếu vắng các nguồn quặng đồng và hợp kim bản địa trong toàn miền. Kĩ thuật chế tác đá mang nhiều tính chất thực dụng; tiết kiệm tối đa công sức và nguyên liệu. Bộ công cụ đá mang đặc tính chuyên môn hoá cao.
Chiếm số lượng nhiều nhất là công cụ sản xuất; vũ khí (rìu; bôn; cuốc; mai; dao hái; đục; mũi nhọn- mũi tên). Loại hình trang sức thường gặp là các loại vòng; vật đeo. Tại di tích Đồi Phòng Quân đã tìm được nhiều dấu tích của di chỉ xưởng. Công xưởng này được chuyên môn hóa để chế tạo một loại sản phẩm duy nhất là vòng đá.
Một loại hình nữa là đàn đá- đây là chế phẩm đặc thù của văn hoá Đồng Nai; đàn đá có mặt ở nhiều di tích; có niên đại khoảng 3000 năm cách ngày nay. Đặc biệt là ở Bình Đa; lần đầu tiên đàn đá được tìm thấy trong một tầng văn hoá cổ; cùng với tổ hợp di vật gốm đá khác. Phát hiện này đã giúp xác định được niên đại đàn đá; khẳng định sự tồn tại của một nhạc cụ cổ truyền ở Đồng Nai nói riêng và ở nước ta nói chung. Nghề đúc đồng và luyện kim đồng đã xuất hiện vào khoảng 4000 năm cách ngày nay.
Tuy vậy; dựa trên những tư liệu mới; có thể thấy rằng đồ đồng đã khá phổ biến vào khoảng 3000 năm cách ngày nay. Nhiều di chỉ đúc đồ đồng đã được phát hiện ở Suối Chồn; Cái Vạn; Dốc Chùa; Bưng Bạc…với hàng loại khuôn đúc loại hai mang liên hoàn nhiều vật đúc. Về loại hình ít nhất có ba loại rìu; giáo; mũi dao. Ngoài ra trên khuôn đúc còn thấy lưỡi đục; lưỡi câu; mũi xiên; chuông; lục lạc; lao ngạnh; kim; bông tai…Ở giai đoạn muộn có loại hình qua.
Giai đoạn muộn của văn hoá Đồng Nai được đặc trưng bởi những khu mộ chum kiểu mộ chum văn hoá Sa Huỳnh với những loại hình hiện vật bằng sắt; bằng đá; đá mã não; thuỷ tinh bên cạnh những hiện vật gốm; đá điển hình của văn hoá Đồng Nai. Về sự xuất hiện của những di tích mộ chum này; hiện nay còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất.
Nghề gốm và nghề làm gốm đã xuất hiện trong những di tích sớm và tồn tại trong suốt quá trình lịch sử cư dân văn hoá Đồng Nai. Chế tạo và sử dụng đồ dùng đun nấu- ăn uống đơn giản về dáng vẻ; mộc mạc và trang trí không cầu kì; song gốm được nung ở độ nung cao và bằng kĩ thuật bàn xoay.
Với những loại hình chủ đạo nồi vò bát; bát có chân Cà ràng; dọi xe sợi; bi; bàn xoa gốm. Loại hình Cà ràng (còn được gọi là gốm sừng bò) thực chất là một loại bếp ba chân có bàn đế thích hợp với môi trường sông nước; được phát hiện trong nhiều di tích bàn xoa gốm là loại dụng cụ được sử dụng trong việc tạo dáng đồ đựng bằng gốm nhằm xoa lên mặt trong gốm cho đều; phẳng; nhẵn và làm cứng phôi gốm.
Văn hoá Đồng Nai còn nổi tiếng bởi sưu tập công cụ gỗ phong phú về loại hình; nhiều về số lượng. Đặc biệt những tổ hợp hiện vật gỗ tìm thấy ở các di tích vùng ngập mặn ven biển như Bưng Bạc; Bưng Thơm; Cái Vạn… Bên cạnh đó là bộ sưu tập công cụ- đồ dùng chế tác từ xương sừng hết sức độc đáo chưa từng có ở Đông Nam Á; với những lưỡi câu lớn gia công từ sừng hươu; dao và kim dùi từ xương trụ của chó nhà; rìu có vai từ mai rùa biển và nhóm trang sức đủ loại.
Về đời sống kinh tế của cư dân văn hoá Đồng Nai; dựa trên hệ thống tư liệu; các nhà nghiên cứu cho rằng những hình thức quan trọng và phổ biến nhất trong đời sống kinh tế truyền thống Đông Nam Bộ là trồng lúa cạn không dùng sức kéo; trồng rau đậu; cây có quả- củ cho bột bằng phương pháp phát- đốt đặc thù của nông nghiệp nương rẫy; chăn nuôi; săn bắn; hái lượm; đánh bắt cá; tôm và nhuyễn thể của sông biển. Khi so sánh trình độ phát triển kinh tế- kĩ thuật và văn văn hoá của những nhóm cư dân trong văn hoá Đồng Nai; cần nhấn mạnh đến đặc thù của quá trình chuyên môn hoá- phân công lao động- phân vùng kinh tế hoà nhập với từng miền sinh cảnh.
Cần có sự quan tâm đặc biệt tới mối ràng buộc thiết yếu giữa những ngành kinh tế chủ đạo nông nghiệp với nghề trồng lúa cạn là phổ cập và cả nghề trồng lúa nước ở những tiểu vùng khả thực nhất (trồng hoa màu; cây có củ- quả và chăn nuôi) và những ngành cung ứng lương thực- thực phẩm tiền sử khác (săn bắn; đánh cá và hái lượm theo phổ rộng những sản phẩm thực- động vật của rừng; suối; sông đầm lầy và biển). Giữa nông nghiệp- khai thác- thủ công (sản xuất đá- công cụ và trang sức; chế luyện kim loại- đúc đồng và rèn sắt; chế tạo gốm- đồ đựng; bàn xoa và dọi se sợi; dệt vải) và thông thương nội; ngoại.
Đời sống tinh thần của cư dân văn hoá Đồng Nai được biết đến qua những hiện vật nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mài dẹt hình gần ôvan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu; tượng lợn; rùa bằng sa thạch; tượng chó săn mồi bằng đồng ở Dốc Chùa; tượng Trút Long giao bằng đồng… Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh. Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hoá láng giềng như trống đồng Đông Sơn; khuyên tai hai đầu thú; khuyên tai ba mấu của văn hoá Sa Huỳnh.
Ở giai đoạn cuối của nền văn hoá này; khi kim loại thực sự đã chiếm vị trí quan trọng; giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của cư dân; mở rộng những tiểu vùng kinh tế sản xuất và khai thác mới; củng cố những liên hệ kinh tế- văn hoá nội vùng; tạo thành những điều kiện tập trung của cải phân bố giàu nghèo và cố kết quyền lực trung tâm; hình thành cơ cấu xã hội có giai cấp sơ khai và Nhà Nước khởi thuỷ vào những thế kỉ đầu công nguyên.
Để nắm rõ hơn về các thời kỳ lịch sử của đất nước Việt nam, xin mời các bạn tham khảo trên chuyên mục Lịch sử Việt Nam để hiểu rõ hơn về niên biểu lịch sử từ thời kỳ tiền sử cho đến nay.