Soạn văn bài: Chuyện người con gái Nam Xương
- David Smith
- February 10, 2022
- 15 min Read
- 2 comments
A. Tóm tắt nội dung chính
1. Tác giả
- Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già.
- Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục.
2. Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương
Truyện kể về Vũ Thị Thiết hay còn gọi là Vũ Nương - người con gái Nam Xương, tính tình thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh đem lòng yêu mến bảo mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép ăn ở đúng mực. Vũ Nương là một người đẹp người đẹp nết. Sau khi Trường Sinh đi lính, Vũ Nương có thai và sinh con. Một mình cô phải ở nhà nuôi con nuôi mẹ. Mẹ Trương Sinh nhớ thương con mà ốm Vũ Nương hết lòng chăm sóc tận tình. Khi mẹ chồng chết, Vũ Nương lo ma chay chu đáo như cha mẹ đẻ. Những tưởng hạnh phúc sẽ đén với nàng nhưng ngày nàng mong đợi là ngày nàng phải chịu một nỗi oan khó rửa sạch. Khi bế con ra mộ mẹ, Trương Sinh tình cơ biết con còn có một người khác mà đêm đêm vẫn đến, về đến nhà chàng mắng chửi thậm tệ và ruồng bỏ đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho hàng xóm và nàng đã hết sức thanh minh. Vũ Nương uất ức tự tử ở bên Hoàng Giang được tiên rẽ nối trở thành tiên. Ở nhà, đêm tối bóng chàng in trên vách thấy con gọi cha Trưong Sinh mới vỡ lẽ ra nỗi oan của vợ thì quá muộn. Ở dưới thủy cung, Vũ Nương luôn hướng về gia đinh, nhờ sự giúp đỡ cua Linh Phi và Phan Lang (người cùng làng) Khi Phan Lang trờ về trần gian,Vũ Nương gởi chiếc hoa vàng cùng lời nhắc cho Truơng Sinh lập đàn giải oan cho mình .Truơng Sinh lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương trở về ngồi trên kiệu hoa đứng giữa dòng lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất, và hiện nay bến sông ở Lí Nhân – Hà Nam vẫn còn đền thờ Vũ Nương.
3.Sơ lược về các nhân vật
a. Phân tích Vũ Nương.
* Vẻ đẹp của Vũ Nương:
-
Đối với chồng, con:
- Thuận hòa, giữ gìn khuôn phép để cuộc sống gia đình êm đẹp.
- Khi chồng ra trận:
- Đảm đang: Là người mẹ hiền, dâu thảo.
- Là người vợ thuỷ chung yêu chồng tha thiết:
- Tận tình, chu đáo rất mực yêu thương con
- Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay chu tất
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiếu thảo, chung thủy, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình ⇒ Là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu người phụ nữ
* Số phận bi kịch của Vũ Nương:
-
Nguyên nhân chính :
- Trương Sinh ghen tuông, ngờ vực. đa nghi vợ không thủy chung
- Cuộc hôn nhân không bình đẳng, chiến tranh phi nghĩa
- Tính Đa nghi của Trương Sinh
- Hành động của Vũ Nương: Phân trần, thanh minh để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
- Đau đớn, thất vọng, không thể thanh minh=> Tự vẫn để bảo toàn danh dự, nhân phẩm
-
Ý nghĩa:
- Phản ánh sự bế tắc, vô vọng của Vũ Nương. Tố cáo XHPK nam quyền, xem trọng quyền uy của người giàu.
- Thể hiện niềm cảm thông của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ
b. Nhân vật Trương Sinh.
- Đa nghi, vô học, độc đoán
- Hành động nông nổi, hồ đồ, vũ phu, thô bạo => là hiện thân của chế độ phụ quyền bất công.
=>Thái độ của tác giả: Phê phán sự ghen tuông mù quáng.
3. Ý nghĩa của những chi tiết đặc sắc trong bài:
Ý nghĩa chi tiết cái bóng:
- Với bé Đản: Là người đàn ông xa lạ
- Đối với Vũ Nương: Là nguyên nhân dẫn đến nỗi oan
- Đối với Trương Sinh: Là bằng chứng về sự hư hỏng của vợ, là sự thật về tội lỗi mình gây ra cho vợ.
=>Chi tiết đặc sắc. Nếu không có nó sẽ theo tình huống khác, bi kịch sẽ kém hấp dẫn.
=> Đó là nghệ thuật xây dựng mâu thuẫn trong truyện lên đỉnh điểm thắt nút là cái bóng mà cởi nút cũng là cái bóng
Ý nghĩa chi tiết kì ảo:
Các yếu tố kì ảo đan xen yếu tố thực (điểm sáng tạo của Nguyễn Dữ):
- Chuyện Phan Lang nằm mộng thả rùa
- Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương dưới thủy cung
- Vũ Nương hiện về giữa uy nghi
Ý nghĩa:
- Hoàn chỉnh nét đẹp của Vũ Nương
- Kết thúc có hậu
- Không giảm tính bi kịch của tác phẩm, mà tăng giá trị tố cáo và niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ
B. Phân tích chi tiết nội dung bài học
1. Phân tích nhân vật Vũ Nương
Cuộc hôn nhân không hạnh phúc:
- Xuất thân trong một gia đình "kẻ khó", nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp". Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "mến vì dung hạnh" đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.
- Cuộc hôn nhân không hề xuất phát từ tình yêu, không bình đẳng và mang tính chất một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Nàng không thể làm chủ hạnh phúc bản thâm, đúng như những lời xưa để lại "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó"
Phẩm chất con người:
- Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính "đa nghi", nàng đã "giữ gìn khuôn phép" không để xảy ra cảnh vợ chồng phải "thất hòa",
- Luôn yêu thương, nhớ về chồng, không mong chồng giàu sang phúc quý." đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ... " mà chỉ cầu mong cho chồng "được hai chữ bình yên":
- Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: "... mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được".
- Vun vén gia đình, trở thành trụ cột chính gia đình khi vừa nuôi con thơ vừa chăm mẹ chồng đau yếu, "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình".
- Sự hiếu thảo sắc son của nàng được khẳng định ngay từ những lời mẹ chồng nói với . Phải biết rằng từ trước tới giờ mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến không phải là mối quan hệ lúc nào cũng êm đẹp, những lời trăn trối trước khi ra đi của mẹ chồng nagf chính là minh chứng rõ nhất cho tấm lòng vợ hiền dâu thảo của nàng
Số phận bất hạnh:
- Một người phụ nữ vợ hiền dâu thảo, là tấm gương điển hình của những người phụ nữ xưa, sau bao ngày mòn mỏi chờ chồng, những tưởng hạnh phúc đã đến nhưng không ngờ, ngày tháng khi chồng nàng trở về lại chính bắt đầu cho bi kịch của nàng.
- Bi kịch của nàng bắt nguồn từ câu nói con thơ. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã "máng nhiếc" và "đánh đuổi đi".
- Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan chỉ có thể nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng", mãi mãi soi tỏ với dời "vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ".
- Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa !". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi . Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con "rày xin chén nước cho người thác oan" (Truyện Kiều).
-
Cái chết của nàng đã vạch trần:
- Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hôi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.
- Tố cáo tội ác của chiến tranh, phải chăng nếu chiến tranh không xảy ra, Trương Sinh không đi lính thì liệu bi kịch này có bắt đầu
2. Phân tích nhân vật Trương Sinh
- Mở đầu câu chuyện, Trương Sinh được giới thiệu là con nhà nhà khá giả (hào phú) nhưng thất học, lại có tính hay đa nghi. Gia đình Trương chỉ còn có mẹ già. Điều kiện vốn sung túc nhưng Trương lại là người lười biếng học tập, không có khát vọng công danh, sớm đã không màn đến việc đèn sách. Tính cách hay đa nghi, cộng với sự kiêu căng, thất học khiến cho Trương Sinh thường có những hành động hồ đồ, thiếu tình yêu thương.
- Vốn là một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu, lại thiếu lòng tin tưởng vợ cho nên khi giặc tan, chàng trở về, nghe câu nói ngây thơ của con trẻ, lòng ghen tuông của chàng trỗi dậy lấn át cả tình thương khiến chàng hành động mù quáng. Trương Sinh đã đem lời mắng nhiếc, đánh đập Vũ Nương thậm tệ khiến nàng vô cùng đau đớn. Những lời thô bỉ, tệ hại trên đời chàng đều trút lên đầu vợ cho thỏa nỗi hoài nghi và cơn giận dữ bấy lâu, không cần quan tâm đến lời giãi bày, biện minh của vợ.
- Trương Sinh lại là một người vô tình bạc nghĩa. Khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tuy giận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thấy vợ tự vẫn thì có cho người tìm xác vợ nhưng làm không đến nơi đến chốn, chỉ coi thành việc đã qua, tự ân đoạn nghĩa tuyệt với vợ, lại xem đó là một nỗi ô nhục lớn, một thất bại trong cuộc đời mình.
=> Trương Sinh quả là người hồ đồ, nóng nảy, gia chủ mà đã không nghe những lời thanh minh của vợ để gây ra những điều đáng tiếc và không thể nào có thể sửa chữa.
3. Tổng kết:
-
Nội dung:
- Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam=> Cảm thông với số phận đầy bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng. Chính chi tiết này đã tạo nên tính bất ngờ đồng thời cũng tăng thêm tính bi kịch cho chuyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc hoạ đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
- Sử dụng yếu tố kỳ ảo làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm.
-
Giá trị hiện thực:
- Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công với chế độ nam quyền, chà đạp số phận người phụ nữ (Đại diện là nhân vật Trương Sinh).
- Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận của người phụ nữ: chịu nhiều oan khuất và bế tắc, phải tìm đến cái chết để kết thúc bi kịch.
- Phản ánh xã hội phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa làm cho cuộc sống của người dân rơi vào cảnh bế tắc.
-
Giá trị nhân đạo:
- Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương: thùy mị, nết na, luôn giữ gìn khuôn phép, hết mực thủy chung với chồng.
- Tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.